TIỂU SỬ NSND – TS BẠCH TUYẾT

~//~

Trong một chuyến về Tân Châu – An Giang cứu trợ, nhìn những em bé chân trần đen đũi đang chạy dọc hai bên bờ kinh, cố đuổi theo chiếc xuồng có chở NSND Bạch Tuyết, chính cô hồn nhiên cười bảo: “- Mình cũng đã lớn lên từ một tuổi thơ như thế ! Ừ nhỉ ! Có ai biết trước được rằng, trong đám trẻ lêu nghêu ấy lại là một nghệ sĩ hay là một nhân vật nào đó của sau này?”

Một tuổi thơ có đầy đủ sự tinh nghịch, suốt ngày đùa giỡn với nắng gió, với hương vị phù sa ngọt lịm từ dòng sông Chín khúc, ban đêm ngon giấc trong tiếng ầu ơ của mẹ. Để từ đó rót đầy tâm hồn, ấp ủ giọng ca mà thành hình một chân dung nghệ thuật : NSND – Tiến sĩ Bạch Tuyết.

Tiếng ru hời đã đứt quãng vào một ngày của tết 1955. Biến cố đầu tiên và cũng là biến cố lớn nhất trong đời của Bạch Tuyết là sự ra đi quá sớm và bất ngờ của người mẹ trong một tai nạn giao thông. Mồng 7 Tết, hai chị em tất tả chạy vào nhà thương. Màu trắng của những tấm dra, của những chiếc áo blouse và cả không khí lạnh lẽo của bệnh viện trong những ngày Tết. Chỉ duy nhất, ánh mắt của người mẹ là màu đen thăm thẳm, nấn níu nhìn hai đứa con thơ lần cuối, chỉ kịp dặn lại mấy câu: “- Con ráng sống làm sao để người ta đừng mắng là đồ không cha không mẹ !”. Lời dặn dò ngắn ngủi trong sự mong manh giữa bờ sống – chết ấy lại trở thành cái Đạo lý của cả một đời người mà Bạch Tuyết và người chị gái của mình theo đuổi. Những bước đường chông chênh, gập ghềnh chính là chất xúc tác để người con vươn lên đạt thấu hai chữ Thành Danh và giữ trọn hai tiếng Thành Nhân trước vong linh của người mẹ và nỗi canh cánh của người cha đã bước thêm bước nữa.

Được cha đưa vào học trường nội trú Saint -Esprit cũng là môi trường rèn luyện con người đi vào mọi khuôn khổ nề nếp từ đi đứng, lời ăn tiếng nói, nữ công gia chánh cho đến những đoản khúc Thánh ca cứ gieo vào tâm hồn, chắp cánh cho một tình yêu nghệ thuật đã nhú mầm. Ở trường, với làn da không đủ trắng nhưng cô học trò nhỏ Nguyễn Thị Bạch Tuyết lại luôn được các soeur, các thầy cô chọn làm Thiên thần bởi nhờ giọng ca vun vút.

Và có lẽ, đôi cánh thiên thần đã không đưa Bạch Tuyết đến với nghề Luật sư như cô hằng mơ ước mà vô tình đáp xuống dòng sông nghệ thuật. Lạ một điều, dòng sông ấy dù mênh mang, bát ngát lại luôn chảy ngược dòng để tìm về cội nguồn của xứ sở, quê hương. Ngay cả khi đã dám giấu cha, lẻn theo người chú để đi hát show ca nhạc, rồi bị bắt gặp, bị cấm đoán, rồi đưa trở lại trường nhưng chỉ cần một nhạc sĩ rao lên mấy ngón đờn tranh là Bạch Tuyết cứ thế mà ca Bắc hát Nam, xuống vọng cổ ngọt ngào, không hề trật nhịp.

Một thoáng ” hoài nghi”: nghệ thuật ca – kịch cải lương đã chọn đúng tên cô hay cô đã tìm đến loại hình nghệ thuật đặc trưng của văn hóa Nam Bộ này?!   Một lời khẳng định: Đó là cuộc hội ngộ giữa một tâm hồn và tài năng khát khao giao cảm với đất trời, với lòng người cũng như sự đón nhận hào phóng nhất của thế giới nghệ thuật cải lương dành riêng cho Bạch Tuyết.

Soạn giả Điêu Huyền là người đầu tiên đã chính thức bắt nhịp cầu đưa Bạch Tuyết vào với sân khấu đúng vào lúc cô tròn 16 tuổi ở đoàn Kiên Giang. Người soạn giả tài hoa này, cũng đã ngầm nhận ra những “ẩn số” tài năng nơi Bạch Tuyết. Và ông cũng đã nhận cô làm con nuôi – một sự đỡ đầu tinh thần cần thiết cho cô gái đang ngỡ ngàng đặt chân vào thế giới của những Đào Kép – Tuồng tích, kể cả sự ganh đua và nổi tiếng…

Chưa kịp qua khoảng thời gian làm vũ nữ (đội múa), hay phải “thử thách” làm đào ba, đào nhì, Bạch Tuyết được nhận ngay vai chính trong “Lá Thắm Chỉ Hồng“ của Điêu Huyền. Với vai diễn đầu tiên này, Bạch Tuyết đã kịp “trình tên” với Tổ nghiệp và sân khấu cải lương được báo hiệu về sự xuất hiện mới từ một tên tuổi lạ.

Rời Kiên Giang đầy tình nghĩa của ông bà Bầu Sáu Nhỏ, một nghiệp chủ giàu có, hữu duyên với nghệ thuật Cải lương để về Thống Nhất Út Trà Ôn từ năm 1963. Ngay trong khoảng thời gian mà xã hội đầy dẫy những biến động, Bạch Tuyết đã đảm nhận vai nữ chính trong “Tàn Một Kiếp Hoa” của soạn giả Trung Nguyên, và đoạt giải triển vọng Thanh Tâm 1963.

Như vậy, chỉ trên dưới hai năm kể từ ngày “gia nhập” giới sân khấu, Bạch Tuyết đã đăng quang. Để rồi, hai năm sau đó, khi về Dạ Lý Hương,  với vai Lê Thị Trường An trong “Tuyệt tình ca” (Người đối diện lương tâm) của Hoa Phượng – Ngọc Điệp, vai cô Tần trong vỡ ”Tần Nương Thất“ của Hà Triều – Hoa Phượng, Bạch Tuyết tiếp tục lên ngôi với giải xuất sắc Thanh Tâm. Danh hiệu “Cải lương chi bảo” đã ra đời từ đó, được chính giới ký giả kịch trường và nhiều soạn giả tiếng tăm khẳng định.

Ngày 30.4.1975  cột mốc lịch sử của cả dân tộc và cũng là điểm mốc cho một đời người. Những tưởng tấm màn nhung đã khép lại một cuộc đời sân khấu nhưng ngay chính giữa bao ngổn ngang thời cuộc ấy, có một người ở lại, tự nguyện gắn mình với những khó khăn chung của đất nước.

Năm 1979, sự kiện Thanh Nga và tấm gương hy sinh lẫm liệt của người nữ nghệ sĩ tài sắc này đã gióng một hồi chuông lương tri đến tất cả những người dân Việt Nam. Giới SK cải lương kết đoàn, Bạch Tuyết lúc bấy giờ mới quyết định trở lại sân khấu cùng ra trận với đồng loạt 7 Thái hậu Dương Vân Nga. Tình yêu và trách nhiệm của người nghệ sĩ – người công dân được tiếp sức cùng trái tim của một người mẹ trẻ – Bạch Tuyết đã xuất hiện đỉnh đạt, đúng lúc trên SK của nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất với sự thương yêu, bão bọc của công chúng khán giả cả nước.

Nghệ thuật được điểm tô bằng một sức sống mới đã tạo nên một phong cách Bạch Tuyết đạt đến độ chín mùi với tác phẩm “Dương Vân Nga” , Kiều Nguyệt Nga” của Nhà hát Trần Hữu Trang, rồi “Đời cô Lựu” trên SK 2-84. Một lần nữa, ý thức công dân đã giúp những nghệ sĩ trong chuyến công diễn các nước Tây Âu  trở thành những ” sứ giả văn hóa ” đầu tiên của giới SK TP Hồ Chí Minh. Đó cũng là một giai đọan “điểm son” trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Bạch Tuyết bởi với một loạt những thành công trên SK của Nhà Hát Trần Hữu Trang, với Giám đốc – Đạo diễn tài hoa Lưu Chi Lăng SK cải lương cả nước đã phục hưng thật sự.

Trôi theo dòng chảy nghệ thuật của Bạch Tuyết, người ta sẽ nhận thấy rằng, sự xuất hiện của cô trên SK không ồ ạt, nếu không muốn nói là khá hiếm hoi ở từng giai đoạn một. Song, từng vai diễn, vở diễn của Bạch Tuyết luôn tạo được một ” độ nén ” nghệ thuật có tính đột phá rất cao. Những quãng nghỉ, khoảng dừng trong cuộc đời ca hát của Bạch Tuyết dường như là để gom góp bấy nhiêu niềm đam mê, sự tìm tòi, khám phá tiếp tục dồn sức cho những thành công bất ngờ kế tiếp. Trong khả năng và điều kiện cho phép, Bạch Tuyết đã tự nâng cao hiểu biết của mình bằng thái độ không ngừng học hỏi.

Tốt nghiệp cử nhân Ngữ văn – tốt nghiệp Đạo diễn tại Bungary – tốt nghiệp Cao học rồi tiếp theo học vị tiến sĩ nghệ thuật học tại Anh – Bungary, với đề tài: “Sự thích nghi của Nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á với điều kiện sinh hoạt hiện đại của khán giả thế kỹ thứ 21”.

Trên mọi thứ bằng cấp, học vị, danh hiệu, nơi Con Người Này là một thái độ sống và làm việc không mệt mỏi. Bao niềm vui, nỗi buồn, cả những vị mặn của thế thái nhân tình đi qua cuộc đời – sàn diễn, lại là chất liệu sống – gom thành cái Triết lý xanh tươi nhất cho Bạch Tuyết: “Sống là cho và được cho”.

Cuộc khai phá vào mảng SK thử nghiệm ở những năm đầu của thập kỷ 90 là dòng chảy bất tận đó. Với “Diễn kịch một mình” cho cả cõi nhân sinh “Vở kịch một nhân vật đầu tiên của Việt Nam do soạn giả Lê Duy Hạnh sáng tác 1992 đã góp công làm mới nghệ thuật kịch SK thành phố. Rồi “Hòang hậu của hai vua” Đây cũng là vở Cải lương một nhân vật đầu tiên của Việt Nam cùng một tác giả –  phân thân và đối thọai cùng lịch sử – một chứng nhân của nghệ thuật cải lương trữ tình và bác học đã hoàn toàn thu phục giới SK trong nước và khu vực…

Thuở thiếu thời, Bạch Tuyết đã chọn cải lương hay cải lương đã chọn cô làm cánh cửa lập thân. Theo dòng thời gian, cải lương đã trao cho cô tình yêu và sức sống nghệ thuật để nhiều thế hệ công chúng Việt Nam đi qua vẫn ngoảnh lại để chiêm ngưỡng, vẫn vươn tới để đón nhận ngôi vị Cải lương chi bảo – Bạch Tuyết.